Hiện tại, 37% người tiêu dùng đang sử dụng thanh toán thẻ không tiếp xúc tại Việt Nam, trong đó 42% người tiêu dùng thực hiện thanh toán không tiếp xúc bằng điện thoại di động.
Đó là những số liệu từ một khảo sát mới được ủy quyền bởi Visa - công ty công nghệ thanh toán điện tử. 74% người tiêu dùng Việt Nam hy vọng giảm sử dụng tiền mặt, và tăng cường các công nghệ thanh toán mới như thanh toán thẻ không tiếp xúc, thanh toán trên các thiết bị di động và thương mại điện tử. Ngày càng có nhiều nơi chấp nhận thanh toán không tiền mặt.
Thanh toán không tiền mặt đã trở thành xu thế tất yếu đã và đang phát triển mạnh tại Việt Nam. Chị N T. H (Hai Bà Trưng, Hà Nội) cho biết, lúc trước mỗi khi nhận được thông báo đóng học phí cho con, chị thường đóng trực tiếp bằng tiền mặt tại phòng kế toán của trường. Nhưng sau mùa dịch bệnh, hai vợ chồng chị ngại tiếp xúc nhiều nên cứ dùng điện thoại quẹt mã code trên giấy báo để thanh toán học phí cho con. Thậm chí, ở một số nơi mua sắm, chị cũng scan mã trả tiền.
Mặt khác, trên 90% giao dịch dưới 100.000 đồng bằng tiền mặt, vì thế mobile money hướng tới giao dịch giá trị nhỏ sẽ là giải pháp mạnh mẽ để thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt. Lợi thế của các nhà mạng là mạng lưới bán hàng rộng khắp, 100.000 điểm bán hàng của Vinaphone; Viettel cũng có hơn 2.600 cửa hàng, bưu cục, hơn 270.000 đại lý/điểm bán hàng... Việt Nam hiện đang nhắc nhiều đến nền kinh tế số cùng với nỗ lực thúc đẩy thanh toán di động, thương mại điện tử; trong đó hướng vượt qua rào cản "chi trả bằng tiền mặt" chính là sự lan tỏa của tiền di động (mobile money) trên các thiết bị điện thoại thông minh. Trên thực tế, tại Việt Nam dù tỷ lệ người dùng thẻ tín dụng chưa cao, nhưng mật độ thuê bao di động đạt trên 100%.
Tại Việt Nam, tiền di động vẫn được coi là một dịch vụ tương đối mới, nhưng cho thấy tiềm năng lớn để phát triển trong tương lai. Theo kế hoạch thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông sẽ giảm từ 12% trong năm 2016 xuống dưới 10% vào cuối năm 2020.
Hơn nữa, cơ sở hạ tầng cần thiết để triển khai tiền di động tại Việt Nam đã được cải thiện. Hiện tại, VNPT và Viettel đã được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép để thực hiện các dịch vụ đó. Cơ sở dữ liệu cá nhân quốc gia cũng đã được xây dựng để cấp số định danh cá nhân cho mọi người và cũng sẽ sớm áp dụng e-KYC (khách hàng điện tử - Electronic Know Your Customer).
Thanh toán kỹ thuật số, đặc biệt là tiền di động (mobile money) - một dịch vụ trong đó điện thoại di động được sử dụng để truy cập các dịch vụ tài chính ngày càng hấp dẫn đang là xu hướng mới. Người dùng chỉ cần chạm thẻ, điện thoại hoặc các thiết bị thông minh vào máy thanh toán POS.
Mặc dù vậy, trong giao dịch tiền di động, vẫn tồn tại những rủi ro có thể có liên quan đến dịch vụ này, chủ yếu liên quan đến gian lận tiềm ẩn. Các loại gian lận phổ biến nhất liên quan đến tiền điện thoại di động bao gồm trộm danh tính, tiền gửi giả, lừa đảo (lừa đảo bảo hiểm di động, lừa đảo quảng cáo…). Tuy nhiên, những hoạt động bất hợp pháp này có thể được ngăn chặn thông qua việc thực hiện các quy định để giảm thiểu và quản lý rủi ro trong khi vẫn tiến tới mục tiêu kinh doanh.
Do vậy, một cơ sở dữ liệu cá nhân và an ninh mạng cũng là mối quan tâm lớn. Một khung pháp lý hiện đang được xây dựng nhưng rất có thể sẽ còn cần một lộ trình rất lâu nữa, do dịch vụ này còn khá mới ở Việt Nam. Cuối cùng, các dịch vụ này có thể được sử dụng cho mục đích đánh bạc hoặc rửa tiền nếu không có quy định phù hợp và chặt chẽ.
Một hệ thống pháp lý điều chỉnh các dịch vụ này cần tạo ra một sân chơi công bằng giữa các ngân hàng và nhà cung cấp phi ngân hàng, bảo vệ các khoản tiền của khách hàng , bảo đảm tính minh bạch và an ninh mạng; ngăn ngừa và giảm thiểu rửa tiền và đánh bạc, đồng thời bảo đảm đủ năng lực về phía các nhà cung cấp dịch vụ, phác thảo các tiêu chí lựa chọn cho các đại lý và làm rõ các cơ chế giám sát.
Vì tiền di động còn khá mới đối với Việt Nam với nhiều điều không chắc chắn trong tương lai khi triển khai nên cần có một lộ trình chi tiết và hành lang pháp lý; nhằm làm rõ phạm vi và mục tiêu, hợp tác giữa các bên liên quan và trách nhiệm của các bên liên quan và quản lý nhà nước.